Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) vừa công bố Báo cáo thị trường dầu mỏ (OMR) tháng 1/2024.
Đây là một trong những nguồn dữ liệu, dự báo và phân tích kịp thời và có thẩm quyền nhất trên thế giới về thị trường dầu mỏ toàn cầu, bao gồm cả số liệu thống kê và bình luận chi tiết về nguồn cung, cầu, tồn kho, giá cả và hoạt động hóa lọc dầu cũng như các giao dịch mua bán dầu mỏ của IEA và một số quốc gia không phải là thành viên IEA.
Trong phạm vi bài viết này, xin trân trọng giới thiệu tóm tắt những nội dung của bản báo cáo này.
Tiêu điểm
Hiện tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ toàn cầu đang trên đà chậm lại ở mức 1,7 triệu thùng/ngày so với cùng kỳ trong Quý 4/2023, mức thấp hơn nhiều so với sản lượng 3,2 triệu thùng/ngày được ghi nhận trong Quý 2 đến Quý 3/2023, điều này phản ánh việc Trung Quốc tháo gỡ và gia tăng nhu cầu đi lại du lịch của người dân sau đại dịch COVID-19. Mức tăng trưởng dầu thô của Trung Quốc được dự đoán sẽ giảm từ 2,3 triệu thùng/ngày vào năm 2023 xuống còn 1,2 triệu thùng/ngày vào năm 2024 do gặp phải những trở ngại về mặt kinh tế vĩ mô, sự siết chặt các tiêu chuẩn hiệu quả một cách chặt chẽ hơn, và số lượng xe điện ngày càng phát triển và mở rộng, điều này sẽ góp phần tạo ra những hiệu ứng tích cực hơn.
Nguồn cung dầu mỏ thế giới được dự báo sẽ tăng thêm 1,5 triệu thùng/ngày lên mức cao mới là 103,5 triệu thùng/ngày là do sản lượng sản xuất đạt mức kỷ lục từ Hoa Kỳ, Brazil, Guyana và Canada. Sản lượng khai thác ngoài OPEC+ sẽ chi phối mức tăng trưởng nguồn cung dầu mỏ trong năm nay, chiếm gần 1,5 triệu thùng/ngày. Ngược lại, nguồn cung của OPEC+ dự kiến vẫn sẽ giữ sự ổn định như trong năm ngoái với giả định việc cắt giảm sản lượng tự nguyện bổ sung đã bắt đầu có hiệu lực từ tháng này sẽ được loại bỏ một cách dần dần trong Quý 2/2024.
Sự khác biệt về lợi nhuận của các nhà máy lọc dầu trong từng khu vực đã bị thu hẹp hơn nữa trong tháng 12/2023 do biên lợi nhuận ở Lưu vực Đại Tây Dương bị suy yếu song có chỉ dấu lại tăng lên ở Singapore. Sản lượng dầu thô của nhà máy lọc dầu được dự báo sẽ đạt trung bình 83,3 triệu thùng/ngày (2024), vượt qua mức kỷ lục 82,5 triệu thùng/ngày (2018). Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa các hoạt động thuộc OECD và không thuộc OECD sẽ tiếp tục gia tăng khi công suất lọc dầu mới được bắt đầu thực hiện ở khu vực Trung Đông, Châu Phi và Trung Quốc.
Xuất khẩu dầu thô của Nga đã tăng thêm 500 nghìn thùng/ngày lên mức cao nhất trong 9 tháng vừa qua là 7,8 triệu thùng/ngày trong tháng 12/2023, trong khi đó, sản lượng dầu thô giao lại tăng thêm 5 triệu thùng/ngày lên mức cao 240 kilometer thùng/ngày (tức 63.401 gallon Hoa Kỳ), trong khi giao dịch dòng sản phẩm tăng lên mức 260 kilometer thùng/ngày. So với cùng kỳ dự báo doanh thu xuất khẩu dầu thô ước giảm xuống mức thấp nhất trong 6 tháng là 14,4 tỷ USD bởi do mức chiết khấu giá dầu thô của Nga tăng và giá dầu chuẩn lại giảm. Đồng thời, Nga cũng đã cắt giảm sản lượng dầu thô trong tháng 12/2023 xuống thêm 20.000 thùng/ngày so với tháng trước với sản lượng dầu thô xuống còn 9,48 triệu thùng/ngày.
Mức tồn kho dầu thô được quan sát trên toàn cầu đã giảm xuống mức 8,4 triệu thùng trong tháng 11/2023 là mức thấp nhất kể từ tháng 7/2022 đối với lượng dầu thô và các sản phẩm chưng cất loại trung đặc biệt rất khan hiếm. Sự sụt giảm lượng nhũ tương dầu trong nước (-12 triệu thùng) được bù đắp một phần nhờ lượng dầu thô dự trữ trên đất liền tăng (+3,6 triệu thùng). Các sản phẩm dầu mỏ có mức giảm đáng kể 24,6 triệu thùng, trong khi đó, dầu tồn kho tăng 16,2 triệu thùng. Dữ liệu sơ bộ cho thấy mức tồn kho toàn cầu tăng trong tháng 12/2023 do giá nhũ tương dầu trong nước tăng mạnh.
Giá dầu thô giao kỳ hạn chuẩn được phục hồi với mức khoảng 4 USD/thùng từ mức thấp giữa tháng 12/2023 do căng thẳng trên Biển Đỏ làm dấy lên những quan ngại về địa chính trị khu vực. Giá dầu thô đã sụt giảm trong tháng 12/2023 trong bối cảnh sự cân bằng về mặt vật chất khá thuận lợi với nguồn cung dầu thô đạt mức kỷ lục của Hoa Kỳ hiện đang tiến hành khai thác dầu thô ở Lưu vực Đại Tây Dương. Vai trò trao đổi nguồn quỹ tài chính bị sụt giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm qua khi mà tại thời điểm công bố báo cáo thì giá dầu Brent giao tương lai đang được giao dịch ở mức 77 USD/thùng.
Biến động
Căng thẳng về mặt địa chính trị hiện đang gia tăng ở khu vực Trung Đông, nơi chiếm tới 1/3 giao dịch dầu mỏ bằng đường biển của thế giới, điều này khiến thị trường dầu mỏ đứng trước nguy cơ bị đe dọa vào đầu năm 2024. Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã tiến hành các cuộc không kích vào nhiều mục tiêu của lực lượng Houthi do Iran hậu thuẫn ở Yemen, nhằm đáp trả các cuộc tấn công bằng tên lửa vào một số tàu chở dầu trên Biển Đỏ, đã làm dấy lên sự quan ngại khi cho rằng sự leo thang căng thẳng của cuộc xung đột có thể làm gián đoạn thêm dòng chảy dầu mỏ thông qua các tuyến đường vận chuyển thương mại huyết mạch. Trong khi hoạt động sản xuất dầu thô và LNG hầu như không bị ảnh hưởng nhiều thì ngày càng có nhiều chủ tàu chuyển hướng vận chuyển dầu mỏ ra khỏi Biển Đỏ. Tại thời điểm công bố báo cáo này, giá dầu Brent giao tương lai chỉ ở mức trên 77 USD/thùng và dầu ngọt nhẹ WTI chỉ khoảng 72 USD/thùng.
Ngoại trừ sự gián đoạn đáng kể đối với dòng chảy dầu mỏ vận chuyển thương mại, thị trường dầu mỏ nhìn chung có dấu hiệu hồi phục ở mức khá tích cực vào năm 2024, với mức tăng sản lượng ngoài OPEC+ cao hơn dự kiến, điều này sẽ vượt xa mức tăng trưởng nhu cầu dầu thế giới hiện ở mức khá cao. Trong khi các chính sách quản lý nguồn cung của OPEC+ có thể khiến thị trường dầu mỏ thế giới rơi vào tình trạng thâm hụt không đáng kể vào đầu năm thì sự tăng trưởng mạnh mẽ từ các nhà sản xuất ngoài OPEC+ có thể dẫn đến tình trạng thặng dư đáng kể nếu việc cắt giảm sản lượng tự nguyện bổ sung của nhóm OPEC+ không bị ràng buộc trong Quý 2/2024. Theo đó, nguồn cung dầu thô toàn cầu được dự báo sẽ tăng thêm 1,5 triệu thùng/ngày lên mức cao mới là 103,5 triệu thùng/ngày (2024). Châu Mỹ mà dẫn đầu là Hoa Kỳ, Brazil, Guyana và Canada sẽ thống trị mức tăng trưởng vào năm 2024 giống như khu vực này đã đạt được kết quả năm 2023. Sau khi sản lượng tăng mạnh trong Quý 4/2023, nguồn cung dầu thô toàn cầu dự kiến sẽ giảm trong tháng này do thời tiết giá lạnh tràn qua Hoa Kỳ và Canada đã gây thiệt hại đáng kể cho hoạt động khai thác dầu thô tại hai quốc gia này.
Nhu cầu dầu toàn cầu dự báo sẽ giảm một nửa từ mức 2,3 triệu thùng/ngày (2023) sẽ xuống còn 1,2 triệu thùng/ngày trong năm nay, với sự phục hồi gần như hoàn toàn sau COVID-19, tăng trưởng GDP giảm xuống dưới mức dự báo xu hướng ở các nền kinh tế lớn và sự cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng và điện khí hóa các phương tiện vận chuyển đã hạn chế phần nào việc sử dụng dầu mỏ. Trong suốt năm 2023, tốc độ tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ bên ngoài Trung Quốc đã tăng trưởng chậm lại một cách đáng kể, trung bình khoảng 300 nghìn thùng/ngày trong nửa cuối năm 2023. Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục dẫn đầu tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ vào năm 2024, với lĩnh vực hóa lọc dầu đang ngày càng mở rộng và chiếm thị phần ngày càng lớn.
Dự báo đầu năm 2024, nguy cơ gián đoạn nguồn cung dầu mỏ toàn cầu do xung đột ở khu vực Trung Đông vẫn tăng cao, nhất là đối với các dòng dầu mỏ được vận chuyển qua Biển Đỏ, và đặc biệt quan trọng vận chuyển qua kênh đào Suez. Năm 2023, ước có khoảng 10% giao dịch dầu mỏ thương mại được vận chuyển bằng đường biển trên thế giới, tức là khoảng 7,2 triệu thùng/ngày đối với dầu thô và sản phẩm dầu, và 8% giao dịch LNG toàn cầu đã được vận chuyển qua tuyến đường thương mại huyết mạch này. Tuyến đường vận chuyển dầu mỏ thay thế chính được điều chỉnh chạy qua Mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đã làm kéo dài thời gian các chuyến hải trình lên đến hai tuần, điều này gây thêm áp lực lên chuỗi cung ứng toàn cầu và làm gia tăng chi phí vận chuyển hàng hóa và bảo hiểm.
Tương tự như mọi khi, IEA cam kết sẵn sàng phản ứng dứt khoát nếu có sự gián đoạn nguồn cung và thị trường dầu mỏ toàn cầu cần bổ sung thêm sản lượng dầu thô. Các quốc gia thành viên IEA cùng nhau nắm giữ kho dự trữ dầu thô khoảng 4 tỷ thùng, bao gồm 1,2 tỷ thùng tồn kho do chính phủ kiểm soát được lưu giữ riêng trong trường hợp khẩn cấp quốc gia. Như vậy, khoảng đệm đó sẽ giúp làm xoa dịu những lo lắng và sự sợ hãi của thị trường giữa các chính phủ, ngành công nghiệp và người tiêu dùng năng lượng.
Nguồn: Petrotimes
|